dinh dưỡng từ cà cuống

5 DINH DƯỠNG TUYỆT VỜI CÓ TỪ THỊT CÀ CUỐNG.

5 DINH DƯỠNG TUYỆT VỜI CÓ TỪ THỊT CÀ CUỐNG.

Trong số này :

Dinh dưỡng – Nhu cầu không thể thiếu của con người.

          Năng lượng của con người chúng ta sử dụng như thế nào ?

          Protein – bao nhiêu là đủ ?

          Carbonhydrat

          Chất béo

Dinh dưỡng có được từ thịt con cà cuống ?

 

          Dinh dưỡng – Nhu cầu không thể thiếu của con người.

Nhu cầu dinh dưỡng không chỉ thay đổi ở từng cá thể con người chúng ta mà còn thay đổi từng ngày và từng đối tượng. Chúng cũng khác nhau theo tuổi tác, giới tính, trọng lượng cơ thể nữa.

Cơ thể con người cần khoảng 40 loại chất dinh dưỡng khác nhau . Các chất dinh dưỡng là rất cần thiết nếu cơ thể không thể tự tổng hợp được và nếu thiếu hụt sẽ gây ra những bất thường có thể nhận ra và sẽ mất đi khi thiếu hụt đó được điều chỉnh kịp thời.

dinh dưỡng
dinh dưỡng

Các chất dinh dưỡng gồm các acid amin cần thiết, các vitamin tan trong nước, các vitamin tan trong dầu, các chất khoáng và các acid béo cần thiết. Cơ thể cũng cần đầy đủ năng lượng, một lượng nhỏ carbonhydrat có thể chuyển hoá, carbonhydrat không thể tiêu hóa (chất xơ), bổ sung nitơ, và nước.

Nhu cầu dinh dưỡng thường biểu thị bằng lượng các chất dinh dưỡng trung bình hàng ngày cần tiêu thụ ở một nhóm dân số, ở Mỹ, hầu hết sự ước lượng về nhu cầu dinh dưỡng được sử dụng rộng rãi là lượng khuyên dùng hàng ngày (recommended dietary allowances- RDAs) do tiểu ban thực phẩm và dinh dưỡng của Viện hàn lâm khoa học quốc gia đưa ra.

RDAs đã thiết lập được nhu cầu năng lượng và protein; các vitamin tan trong nước: thiamin, riboflavin, niacin, vitamin B6, acid folic, vitamin B12, và vitamin C; các vitamin tan trong dầu: A, D và K; các chất khoáng: calci, phospho, magnesi, sắt, kẽm, iod, và selen.

 Năng lượng của con người chúng ta sử dụng như thế nào ?

Cơ thể cần năng lượng để duy trì hoạt động thể chất và chức năng bình thường, tăng trưởng, và sửa chữa mô bị tổn thương. Năng lượng được tạo ra qua quá trình oxy hóa protein, chất béo, carbonhydrat, và alcohol từ chế độ ăn.

Oxy hóa 1g protein và carbonhydrat tạo ra 4 Kcal, 1g chất béo tạo ra 9 Kcal, và 1g rượu (cồn) tạo ra 7 Kcal.

Ở người trưởng thành khoẻ mạnh, tiêu phí năng lượng chủ yếu được xác định bằng 3 yếu tố: tiêu phí năng lượng cơ sở (basal energy expenditure – BEE), tác động nhiệt của thức ăn (thermic effect of food- TEF) và hoạt động thể chất.

Protein – bao nhiêu là đủ ?

Protein cần để tăng trưởng và duy trì cấu trúc, chức năng của cơ thể. Mặc dù nhu cầu dinh dưỡng thường tính bằng số gam protein nhưng nhu cầu thực sự là 9 acid amin cần thiết cùng với nitơ bổ sung cho quá trình tổng hợp protein.

Protein
Protein

Các acid amin cần thiết là leucin, isoleucin, lysin, methionin, phenylalanin, threonin, tryptophan, valin và histidin.

Lượng protein đầy đủ phải được đưa vào mỗi ngày để thay thế cho các acid amin cần thiết bị mất qua sự luân chuyển protein. Với chế độ ăn không có protein, một nam giới trung niên mất 3,8 g nitơ mỗi ngày, tương đương với 24 g protein, cần chú ý đến sự khác nhau trong chất lượng và sử dụng protein, và sự thay đổi ở mỗi người, RDA cho protein là 56 g/ngày với nam giới và 45 g/ngày với nữ giới.

Nhu cầu protein và năng lượng có liên quan chặt chẽ với nhau. Chế độ ăn không cung cấp đủ năng lượng sẽ cần bổ sung protein để duy trì cần bằng nitơ.

Bảng Lượng năng lượng (kcal) tiêu thụ mỗi giờ ở người trưởng thành với cân nặng chọn lựa ở các mức hoạt động khác nhau

177

Chú ý: Tốc độ tiêu phí calo/ phút hoạt động (cho nam giới 70 kg hoặc phụ nữ 58 kg): Khi ngủ: 0,9 – 1,2; lúc hoạt động rất nhẹ: 1,5 – 2,5; lúc hoạt động nhẹ: 2 – 4,9; lúc hoạt động trung bình: 5 – 7,4; lúc hoạt động nặng: 6 – 12.

Carbonhydrat

Khi lượng protein và năng lượng được cung cấp đầy đủ trong chế độ ăn, sẽ không có nhu cầu đặc biệt với carbonhydrat của chế độ ăn. Một lượng nhỏ carbonhydrat – xấp xỉ 100g/ngày- là cần thiết để ngăn ngừa sự tich tụ ceton.

carbonhydrates
carbonhydrates

Tuy nhiên, trong thực tiễn hầu hết năng lượng của chế độ ăn nên do carbonhydrat cung cấp. Ở Mỹ, chế độ ăn trung bình chứa 45% calo là từ carbonhydrat. Những khuyến cáo hiện nay là gia tăng lượng carbonhydrat đưa vào tới 55 – 60% tổng lượng calo trong chế độ ăn.

Các carbonhydrat trong chế độ ăn bao gồm các đường đơn, các carbonhydrat phức hợp (tinh bột) và các carbonhydrat không tiêu hóa được (chất xơ).

Mặc dù đường đơn và các carbonhydrat phức hợp cung cấp lượng calo ngang nhau nhưng hầu hết các carbonhydrat của chế độ ăn nên, có nguồn gốc từ tinh bột.

Các loại đường, đặc biệt là sucrose – có lượng calo cao nhưng không có các chất dinh dưỡng cần thiết khác. Tiêu thụ sucrose cũng được cho là yếu tố quan trọng trong sự phát triển của sâu răng.

Các carbonhydrat phức hợp khi chưa tinh chế sẽ cung cấp năng lượng carbonhydrat và các vitamin, chất khoáng và chất xơ.

Chất xơ trong chế độ ăn là phần thực phẩm thực vật mà ruột của người không thể tiêu hóa được. Chất xơ làm tăng khối lượng phân và dễ bài tiết ra ngoài.

Chế độ ăn có nhiều chất xơ đi kèm với tỷ lệ mới mắc các bệnh tiêu hóa và tim mạch thấp. Những chất xơ khó tan như những loại có ở cám lúa mì sẽ có tác dụng lớn nhất trên hoạt động của đại tràng.

Các chất xơ có thể hòa tan như những chất xơ có trong cây họ đậu, yến mạch, và hoa quả sẽ làm hạ mức đường trong máu ở những bệnh nhân đái tháo đường và làm giảm cholésterol trong máu.

Chất béo

Chất béo trong chế độ ăn là nguồn năng lượng thực phẩm cao nhất. Giống như năng lượng từ carbonhydrat của chế độ ăn, năng lượng có nguồn gốc từ chất béo có thể giúp tổng hợp protein. Chất béo trong chế độ ăn cũng cung cấp acid béo cần thiết là acid linoleic.

Chất béo
Chất béo

Ngoài nhu cầu số lượng đủ acid linoleic, thì không có yêu cầu đặc biệt nào về chất béo trong chế độ ăn từ chế độ ăn cung cấp đầy đủ dinh dưỡng có thể oxy hóa thành năng lượng.

Mặc dù chế độ ăn trung bình của người Mỹ chứa từ 35 – 40% calo từ chất béo thì hầu hết những khuyến cáo hiện tại là nên giới hạn. Chất béo trong chế độ ăn xụông 30% hoặc ít hơn tổng lượng calo. Chế độ ăn có chứa 5 – 10% lượng calo từ chất béo là an toàn và dung nạp tốt.

Các chất béo trong chế độ ăn chủ yếu gồm các acid béo và cholesterol. Các acid béo hoặc không có liên kết đôi (bão hoà), một liên kết đôi (đơn chưa bão hoà) hoặc hơn 2 liên kết đôi (đa chưa bão hoà).

Những lời khuyên hiện nay là giảm tổng lượng chất béo và thay thế các chất béo bão hòa bằng các acid béo đơn chưa bão hòa và các carbonhydrat phức hợp.

Các acid béo bão hòa dẫn đến tăng cholesterol huyết thanh, trong khi các acid đa và đơn chưa bão hòa làm giảm cholesterol huyết thanh.

Các acid béo bão hòa ở dạng rắn trong nhiệt độ phòng nhìn chung có nguồn gốc từ thực phẩm động vật; các acid béo chưa bão hòa ở dạng lỏng trong nhiệt độ phòng và nhìn chung có nguồn gốc từ thực phẩm động vật.

Acid béo đa chưa bão hòa acid linoleic là chất dinh dưỡng cần thiết, cần cho cơ thể tổng hợp acid arachidonic là tiền chất chủ yếu của các prostaglandin.

Thiếu hụt acid linoleic dẫn đến viêm da, rụng tóc, và chậm liền vết thương. Với người có nhu cầu năng lượng trung bình, khoảng 5g acid linoleic mỗi ngày- chiếm 1- 2% tổng lượng calo là đủ để ngăn ngừa sự thiếu hụt acid béo cần thiết.

Cholesterol là thành phần chính của màng tế bào. Nó được cơ thể tổng hợp và không phải là chất dinh dưỡng cần thiết.

Chế độ ăn có chứa lượng lớn cholesterol đặc biệt ức chế tổng hợp cholesterol nội sinh nhưng sẽ dẫn đến tăng nồng độ cholesterol huyết thanh vì ức chế tổng hợp các receptor của lipoprotein tỷ trọng thấp.

Chế độ ăn trung bình của người Mỹ chứa khoảng 450 mg cholesterol/ngày, nhưng chỉ nên dùng khoảng 300 mg hoặc ít hơn.

Dinh dưỡng có được từ thịt con cà cuống ?

Đây là tài liệu nghiên cứu khoa học về Con Cà cuống (Giant Water Bug – Lethocerus sp.) do  Khoa Hệ thống Sinh học, và Khoa chăm sóc sức khỏe Đại học Tự trị Metropolitan, Thành phố México 04960, México công bố.

Cà cuống là loại côn trùng, thuộc họ Belostomidae, từ xa xưa cũng đã là một loại thức ăn truyền thống của các nước thuộc châu Mỹ và châu á.

Ở Mexico được gọi là Cucarachon de agua. Còn ở Thailand là Mangda.

thịt cà cuống
thịt cà cuống

Cà cuống  đã được ghi nhận là một nguồn rất giàu chất dinh dưỡng cung cấp cho con người.

Năm 2014, Cà cuống  đã được các nhà khoa học nghiên cứu một cách nghiêm túc và sâu sắc về thành phần dinh dưỡng theo các phương pháp phân tích chính thức (AOAC).

Người ta tiến hành lấy mẫu từ hai nguồn phổ biến nhất là từ Mexico và Thailand.

Thành phần dinh dưỡng như sau:

BẢNG SO SÁNH HÀM LƯỢNG DINH DƯỠNG

Nguồn Cà cuống mẫu Protein Lipit Khoáng chất Chất xơ Cacbonhydrat
Mexico 60.12% 5.72 % 5.46 % 10.95 % 17.75 %
Thailand 53.11% 8.15 % 6.75 % 12.23 % 19.74 %

 

Chúng ta có thể thấy sự khác biệt về thành phần dinh dưỡng của các mẫu phân tích, được lấy từ hai vùng khác nhau.  Nó có thể là do nguyên nhân sự khác biệt của môi trường sinh thái nơi chúng có được các chất dinh dưỡng cần thiết khác nhau cho sự phát triển và sinh sản.

Tuy nhiên, những con Cà cuống có quanh năm và là một nguồn cung cấp Protein vô cùng tốt có thể giúp cho con người có được nguồn dinh dưỡng đa lượng quan trọng và  rẻ.

Côn trùng không được sử dụng đúng cách và cũng không có mặt ở hầu hết các quốc gia.

Mặc dù thế giới đã có những chương trình sử dụng côn trùng vào các mục tiêu tăng cường dinh dưỡng và chống suy dinh dưỡng , cải thiện sức khỏe cho dân ở các quốc gia, nhưng thế giới vẫn đang ngày càng phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt dinh dưỡng.

Cà cuống là một loài côn trùng lớn nhất trên toàn thế giới, ( Cho nên tên tiếng anh của Cà cuống là Giant Water Bug – Bọ nước khổng lồ !), Ở Mexico gọi là “Cucarachón de agua”, còn ở Thailand gọi là : “ Mangda”.

Cà cuống có quanh năm, nhưng thời gian nhiều  nhất là vào mùa xuân và  mùa hè, bởi vì vào mùa thu và mùa đông, chúng giảm sinh sản .

Hầu hết Cà cuống được sử dụng nhiều ở các vùng nông thôn, nhưng cũng chưa phải là một dạng khẩu phần ăn uống thông thường của người dân, Có thể là do còn thiếu những hiểu biết về hàm lượng dinh dưỡng khủng do chúng mang lại cho con người chúng ta.

Trong các báo cáo nghiên cứu khoa học của trường đại học Mexico công bố thì có rất nhiều thông tin thú vị và hữu ích cho con người chúng ta từ con cà cuống.

Lượng Protein và Lipid có được từ con Cà cuống có thể góp phần vào việc bổ sung làm giàu thêm cho cơ thể con người.

Các khuyến nghị về chế độ ăn uống hiện đại cho Axit béo ω3 là 1,6 g / ngày đối với nam giới và 1,1 g / ngày đối với phụ nữ, trong khi khuyến nghị axit béo ω6 là 17 g /ngày  đối với nam giới và 12 g /ngày đối với nữ giới.

Trong bối cảnh, một thực tế đáng nói là hồ sơ axit trong Cà cuống bao gồm axit béo không bão hòa đơn (MUFA) và axit béo không bão hòa đa (PUFA), cũng như ω3 và axit béo ω6, đã được chứng minh trong phân tích trước đó vào năm 2011 về Con Cà cuống.

Vì vậy, Cà cuống có thể là một nguồn chất béo quan trọng cho những người không có khả năng cung cấp các nguồn lipid khác và do đó góp phần vào duy trì sức khoẻ cho con người.

Hơn nữa, các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy rằng ung thư ruột kết có thể giảm bớt bằng cách tiêu thụ chất xơ, và vì vậy việc bổ sung thêm  từ 20 g / ngày đến 30 g / ngày chất xơ là điều khuyến khích.

Bên cạnh đó, một số loại chất xơ hấp thụ mật axit, chất chuyển hóa chính của cholesterol, vì vậy bổ sung thêm chất xơ có thể hữu ích cho việc giảm bớt nồng độ cholesterol trong máu.

Ngoài ra, các nghiên cứu khác cho thấy rằng tiêu thụ chất xơ có thể là một cách giảm huyết áp, cũng như giảm những nguy cơ của bệnh tim mạch vành.

Cho nên như  đã nói ở trên, việc sử dụng Cà cuống làm thực phẩm  sẽ không chỉ là một nguồn dinh dưỡng thay thế mà còn  cung cấp thành phần vi lượng tốt  đóng góp vào sức khỏe của con người.

          Chất xơ

Côn trùng là loài có cơ thể cứng,  nhiều kitin hàm lượng chất xơ và hàm lượng tro cao. Ngoài ra, lượng chất xơ dường như được liên kết với tro. Hàm lượng chất xơ càng cao, lượng tro càng lớn.

Con Cà cuống được nghiên cứu ở đây ở giai đoạn trưởng thành, vì vậy chúng có một bộ xương ngoài cứng làm bằng kitin, một nguồn chất xơ tự nhiên (N-acetylglucosamine) cần thiết cho các quá trình tiêu hóa.

So sánh mẫu liên quan đến hàm lượng chất xơ không có sự khác biệt đáng kể

giữa các mẫu Mexico và Thái Lan (P> 0,05) :

10,95 ± 0,8 g / 100 g và 12,23 ± 0,6 g / 100 g.

Theo các khuyến nghị của Codex Alimentarius, một sản phẩm đủ điều kiện làm nguồn chất xơ nếu nó chứa 3 g / 100 g, và nó có thể được coi là nguồn  giàu chất xơ nếu nó chứa từ 6 g / 100 g trở lên.

Chính vì vậy mà Thịt Cà cuống được coi là một loại thực phẩm rất giàu chất xơ cho con người.

Carbohydrate hòa tan

Carbohydrate hòa tan là một nguồn quan trọng của năng lượng ở Cà cuống. trong nghiên cứu này, chúng lần lượt có hàm lượng tương ứng là là 17,75 g / 100 g và 19,74

g / 100 g đối với các mẫu Mexico và Thái Lan.

Tuy nhiên, do lượng protein cao được tìm thấy ở những loài côn trùng này, có khả năng là do dư thừa protein và được chuyển hóa thành cacbohydrat bằng cách Gluconeogenesis,.

Cho nên như  đã nói ở trên, việc sử dụng Cà cuống làm thực phẩm  sẽ không chỉ là một nguồn dinh dưỡng thay thế mà còn  cung cấp thành phần vi lượng tốt  đóng góp vào sức khỏe của con người.

Phân tích được thực hiện trong nghiên cứu này đã chứng minh rằng những thực phẩm được chế biến từ con Cà cuống là một nguồn dinh dưỡng quý giá,  điều đó có thể góp phần duy trì sức khỏe của mọi người.

Tôi đã có nhiều bài viết nói về các món ăn trong dân gian được làm từ con Cà cuống, trong bài viết sau, tôi sẽ chia sẻ với các bạn những chế phẩm cao cấp hơn, cũng được chế biến ra từ cà cuống, nhưng bằng những công nghệ hiện đại hiện nay, và giúp cho chúng ta vô cũng dễ dàng sử dụng ! Và đặc biệt hơn nữa là hoàn toàn  thân thiện môi trường.

Hẹn gặp lại các bạn trong bài sau nhé ! và nếu như các bạn có những thông tin nào hay về Cà cuống, rất mong các bạn hãy để lại góp ý nhé.

Thân chào các bạn.

Tony Nguyễn.

Bài viết đã được tạo 20

Một bình luận trong “5 DINH DƯỠNG TUYỆT VỜI CÓ TỪ THỊT CÀ CUỐNG.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

Bài liên quan

Bắt đầu nhập từ khoá bên trên và nhấp enter để tìm kiếm. Nhấn ESC để huỷ.

Trở lên trên